Thứ Ba, 19 tháng 1, 2010

Ông Bụt mang quân hàm xanh



Hiện nay cả nước đang thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đã có rất nhiều những tấm gương, điển hình về Làm theo lời Bác được tuyên dương. Nhưng trong câu chuyện “ Ông Bụt mang quân hàm xanh” dưới đây nói về anh Danh Trường Danh ở đồn Biên Phòng 754 Phú Quốc đã đăng trên báo Tuổi Trẻ sẽ cho chúng ta thêm nhiều những sẽ chia về những việc làm của bản thân mính đối với xã hội.
Năm năm trước, vuốt mắt cho vợ chồng người đồng đội xấu số Dương Thành Ghi, anh đã nhận lời nuôi hai bé Bảo và Chi. Khi nắm tay anh, nói lời trăng trối, cái thân hình khô đét, không khóc nổi một giọt nước mắt của Dương Thành Ghi hẳn chỉ còn biết bấu víu vào trái tim nhân ái cuối cùng của người đồng đội hiền lành. Cuối cùng, vì còn ai nữa có thể dang tay cứu vớt cuộc đời bé bỏng tội nghiệp của hai đứa con anh khi mà ngay cả họ hàng cũng xa lánh những đứa cháu máu mủ vì nỗi ghê sợ bệnh tật...
Khi ấy Chi chỉ mới ba tuổi, máu tuôn, mủ xì lỗ tai, thân thể lở loét vì căn bệnh chết người HIV lây từ cha mẹ em. Ẵm đứa trẻ trên tay mà anh chẳng biết cuộc sống của gia đình mình sẽ đi về đâu. Rồi khó khăn chồng chất khó khăn khi tiệm tạp hóa “kiếm cơm” của vợ anh phải dẹp đi vì nỗi ghê sợ của chòm xóm lúc ấy. Tất cả chỉ còn trông mong vào đồng lương còm cõi của anh lính biên phòng...
Năm năm qua đi, cháu Bảo bây giờ đã học lớp 6, bằng tuổi con trai anh ngày ấy. Đứa con trai duy nhất qua đời chỉ hai hôm sau khi anh tiễn biệt người đồng đội Dương Thành Ghi. Trong nỗi đau tột cùng của người cha mất con, anh càng yêu thương hơn nữa Bảo và Chi mồ côi tội nghiệp. Hai năm sau, vợ chồng anh sinh được bé gái Bích Ngọc.
Trong cái gia đình nhỏ năm người ấy, những đứa trẻ lớn lên như anh em ruột thịt. Chị Chi tuy còn bé nhưng đã biết cách giữ cho em khỏi lây bệnh. Anh Bảo thì học hành chăm ngoan. Còn cha Danh cứ mỗi tháng lại vượt hơn 30 cây số đến bệnh viện lấy thuốc cho Chi. Đồ con cởi ra, máu mủ lở loét tanh hôi vô cùng, vợ chồng anh thay nhau giặt giũ, chẳng nề hà.
Cảm kích trước nghĩa cử cao đẹp của Danh, Đồn biên phòng 754 Phú Quốc đã chắt chiu mỗi tháng 200 ngàn đồng góp cùng gia đình anh nuôi các cháu. Nhưng khổ nỗi đồn nghèo quá, chỉ được ba tháng là hết tiền. Bà con chòm xóm cũng nghèo, mỗi lần đi biển về chỉ cho các con anh được dăm ba cái tép con tôm. Vậy mà anh vẫn cười tếu táo “Không khó khăn gì đâu, con nít nó ăn hết bao nhiêu mà khổ...”. Có người cám cảnh khuyên anh mang cháu vào trung tâm chăm sóc cho đỡ cực thân. Nhưng nhìn đôi mắt trẻ thơ trong trẻo anh đâu nỡ. Lý lẽ của anh chỉ đơn giản là “Có chết, con cũng phải được nằm trong vòng tay tôi”...
Rồi cứ đến ngày giỗ vợ chồng Ghi, một mình anh lại lo liệu lấy. Anh bảo: “Làm vậy để thằng Bảo lớn lên lấy vợ còn nhớ mà thờ cúng ba má nó”. Người ta gọi anh là “ông bụt mang quân hàm xanh” cũng phải! “Ông bụt” đã mang đến điều kỳ diệu cho cuộc đời Bảo và Chi. “Ông bụt” chỉ xin ông bụt nào đó có thực trên cuộc đời này “hãy cho những đứa con của tôi được sống khỏe mạnh...”. Ngay cả trước bàn thờ người đồng đội chịu ơn mình, anh cũng chỉ khấn: “Mày phù hộ cho con cái tao không bệnh tật, nếu không tao không cúng cơm mày nữa đâu”...
Rồi năm tháng cũng qua đi, năm tháng làm dịu những nỗi đau. Anh Danh cũng biết rằng cuộc sống của bé Chi vô cùng ngắn ngủi. Nhưng mỗi phút giây con khỏe lên, đến trường cùng chúng bạn, trong lòng anh lại ngập tràn niềm tin vào những điều kỳ diệu. Còn với Bảo, mai này lớn lên em sẽ gặp được nhiều trái tim nhân hậu khác nữa. Nhưng có lẽ Bảo sẽ mãi biết ơn “trái tim nhân ái cuối cùng” của cha Danh đã an ủi tuổi thơ bất hạnh của mình.

Võ Đinh Hải Linh (GV Sử THCS Tân Thới Hòa)

Mỗi khi nhắc đến cô...


Mỗi khi nhắc đến cô Trần Thị Thơm, các bạn trường Ernst Thalmann (Q.1, TPHCM) lại tự hào kể về cô giáo của mình.
 “Lửa” từ bục giảng  
Cô là giáo viên dạy văn, môn học được xem là dễ… “gây mê” nếu giáo viên thiếu “lửa”. Những ngày đầu đứng lớp, cô đã không tránh khỏi điều này. Buồn khi thấy trong tiết học của mình, học trò cứ để tâm trí… bay tận đâu đâu, cô quyết tâm thay đổi phương pháp dạy. Bằng cách đưa vào bài giảng những câu chuyện có thật từ cuộc sống đời thường, cô đã chỉ cho học trò thấy được mối quan hệ giữa văn và thực, giữa nhân vật tưởng tượng và con người bằng xương bằng thịt. Tấn Sang (lớp 11A1) kể: “Nhân vật Chí Phèo của thế kỉ trước trở nên gần gũi với tụi mình hơn khi được cô liên hệ với một bộ phận thanh niên hư hỏng ngày nay. Họ - nếu không được quan tâm, tiếp sức, sẽ khó vượt qua hình ảnh quỉ dữ để làm lại cuộc đời. Bài giảng của cô gợi cho tụi mình suy nghĩ về thái độ cư xử đối với những người lầm đường lạc lối”... Ngoài giờ học, cô thường tổ chức cho học trò đến thăm các mái ấm, nhà mở… Những trải nghiệm từ đời sống thật không chỉ giúp các bạn trang bị vốn sống mà còn có thêm nhiều bài học làm người…
Khi cô là bạn  Cát Huy (lớp 12A4) tâm sự: “Có lần, cô kể cho tụi mình nghe câu chuyện về tấm lòng nhân ái của Bác Hồ. Khi ấy, tụi mình cứ nghĩ đó là cách cô giúp học trò thư giãn trong giờ học. Nhưng khi chứng kiến những việc cô làm, tụi mình chợt nhận ra câu chuyện ấy đã ảnh hưởng rất lớn đến cách sống của cô”. Đó là việc cô âm thầm theo dõi và phát hiện nguyên nhân khiến bạn N (lớp 11A1) thường xuyên đến lớp trễ, không thuộc bài là do phải đi bán chuối chiên phụ giúp gia đình. Hiểu chuyện, cô trích một phần tiền lương ít ỏi của mình giúp bạn đóng học phí (nhưng lại nói là do nhà trường hỗ trợ); rồi động viên bạn tới nhà để cô dạy kèm miễn phí. Đó còn là việc cô tìm đường đến tận nơi ăn chơi của những học trò lêu lỏng để tỉ tê, khuyên nhủ...


Việc làm thầm lặng của cô đã khơi dậy niềm lạc quan, yêu đời đối với những học sinh cá biệt, giúp các bạn ấy “lột xác” thành những người sống đẹp, như cách cô đang sống.  Là trợ lí thanh niên, cô thích “nghía” xung quanh để phát hiện những “ngôi sao học trò” trên các lĩnh vực để tìm cách bồi dưỡng năng khiếu. Còn nhớ trong Đêm hội văn hoá diễn ra ở trường, bên cạnh các ca sĩ chuyên nghiệp, cô đã mạnh dạn tạo điều kiện cho dàn ca sĩ “cây nhà lá vườn” biểu diễn trong một chương trình có bán vé. Và cô đã không nhìn lầm người. Được cô tin tưởng, các ca sĩ học trò đã biểu diễn hết mình, góp phần thu về cho trường số tiền 30 triệu đồng để gây quĩ hỗ trợ học sinh nghèo, xây dựng một căn nhà tình thương ở Vĩnh Long.  Thương học trò, cô cũng được không ít học trò thương. Thế nên, ngày 20/11 cô thường nhận được rất nhiều hoa. Nhưng cách đây ba năm, cô quyết định… từ chối nhận hoa và khuyên học trò của mình hãy sử dụng tiền mua hoa để giúp những người có hoàn cảnh khó khăn. Cô bảo: “Nghĩa cử đẹp của các em mới là món quà mà cô muốn nhận”. “Sự kiện” lần đó cũng mở đầu cho một hoạt động mới của nhiều bạn học sinh trường Ernst Thalmann: tiết kiệm tiền đóng góp vào quĩ Vì người nghèo, quĩ Hỗ trợ nạn nhân bị chất độc da cam...  Có lẽ giáo viên, học sinh trường Ernst Thalmann không ngạc nhiên khi biết tin cô Thơm đoạt giải nhất tại hội thi “Kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Thành uỷ TPHCM tổ chức (tháng 6/2008). Bởi lẽ cô không chỉ kể chuyện mà từ lâu đã “theo gương Bác” bằng chính cách sống của mình. Và tin giáo viên Trần Thị Thơm trở thành ứng cử viên trong cuộc vận động bình chọn Công dân trẻ tiêu biểu TPHCM năm 2008 của Thành Đoàn hẳn sẽ là tin vui đối với những ai từng yêu mến, tin tưởng cô.

                                                    TRẦN KHÁNH VINH (GV Văn THCS Tân Thới Hòa)








Người mẹ của những học sinh thiểu năng trí tuệ





Có một người phụ nữ đã hết lòng chăm lo cho những đứa trẻ bị bệnh thiểu năng trí tuệ va luôn cầu mong cho những đứa trẻ ấy khôn lớn nên người để bớt đi gánh nặng trên đôi vai những đấng sinh thành. Người phụ nữ ấy chính là cô giáo Nguyễn Thị Tuyết Hồng, giáo viên Trường Tiểu học Nguyễn Thái Học, quận 1, TP.HCM. Bao năm qua, học sinh ở ngôi trường này đã thân mật gọi cô bằng cái tên trìu mến: mẹ Hồng.

Với kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm, người mẹ ấy đã trăn trở với nỗi niềm là “không có trẻ không học được, chỉ có môi trường và phương pháp giáo dục chưa phù hợp”. Với kiến thức được học về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, đồng thời được sự động viên khích lệ từ Ban giám hiệu nhà trường, cô đã tìm tòi đúc kết những kinh nghiệm để dạy học sinh “chậm phát triển trí tuệ”. Trước kia những em mắc bệnh này thường được đưa vào những trường đặc biệt, bị tách riêng, không hòa nhập được cuộc sống bình thường, và lĩnh hội rất ít các kỹ năng của xã hội. Từ đó đã vô tình đưa nhiều trẻ vào cách sống thụ động, khép kín, đánh mất tính năng động tự có của tuổi thơ. Do nhu cầu thực tế nhiệm vụ giáo dục hòa nhập là một xu hướng tất yếu của thời đại, xuất phát từ lương tâm và trách nhiệm, cô đã mày mò nghiên cứu tìm ra giải pháp đưa những em học sinh thiểu năng trí tuệ hòa nhập cộng đồng.
Lúc đầu cô cũng gặp không ít khó khăn, dần dần cô đã từng bước khắc phục bằng cách làm rất khoa học là xác định những đặc điểm chung của các em về chậm phát triển trí tuệ: đặc điểm về tri giác, về tư duy, về trí nhớ, về sự chú ý và đặc điểm về hành vi. Rồi tiếp tục xác định nhu cầu về học tập của các em và khả năng tiếp thu… từ đó để có những giải pháp khắc phục từng mặt còn hạn chế. Cô bắt đầu bổ sung những khiếm khuyết về đọc để các em có thể ghi nhớ, khi các em đã được bổ sung những hạn chế cô bắt đầu dạy về viết và toán học.
Không những dạy cho các em học mà cô dạy các em trở thành công dân nhỏ có ý thức, trở thành con ngoan trò giỏi. Cô còn chăm sóc học sinh từng miếng ăn giấc ngủ, gần gũi bày tỏ giúp các em học ngoan, vui chơi tốt… Cô đã mang lại một sức sống cho những học trò của mình, đặc biệt là những em thiểu năng trí tuệ, tiến bộ vượt bậc. Và cô đã trở thành người mẹ thứ hai của những học sinh kém may mắn.

                                                    TRẦN KHÁNH VINH (GV Văn THCS Tân Thới Hòa)

Thứ Ba, 12 tháng 1, 2010

Cô giáo duy nhất ở Trường Sa




Quyết định liều lĩnh
Cô giáo Bùi Thị Nhung (28 tuổi) vốn dạy ở Trường tiểu học Suối Cát, xã Suốt Cát, còn chồng cô là anh Đặng Thanh Chương, công nhân Xí nghiệp cát trắng Cam Ranh, Khánh Hòa. Hai vợ chồng có một đứa con gái xinh xắn là cháu Đặng Bùi Phương An cùng một mái nhà nhỏ yên bình. Cuộc sống sẽ cứ thế trôi đi, nếu không có một ngày tình cờ cô giáo Nhung nghe chuyện đảo Trường Sa đang có nhiều cháu nhỏ thất học.
“Hồi đó mình trăn trở lắm, mình cũng là mẹ, lại là cô giáo. Biết các cháu nhỏ theo bố mẹ sinh sống ở đảo mà thất học thì tội lắm. Đảo Trường Sa lại thuộc Khánh Hòa nên mình muốn có cái gì đó đóng góp cho quê hương nên mới xin ra đây dạy học”, cô giáo Nhung kể với chúng tôi.
Nhưng chuyện xin ra đảo dạy học, ban đầu cũng vấp phải sự phản đối quyết liệt của gia đình. “Mình là người có gia đình, ra đảo thì chồng con một nơi, mình một nơi cũng khó. Mà mang theo cả chồng, biết làm gì, con cái liệu có sống nổi với khí hậu khắc nghiệt ở Trường Sa không, mình day dứt lắm”, cô Nhung tâm sự.
Trăn trở, day dứt của cô giáo Nhung thật may lại được sự đồng cảm, chia sẻ từ phía chồng. “Nghe vợ bảo đi ra đảo, ban đầu mình cứ tưởng là đùa. Nhưng khi nghe ý định nghiêm túc của vợ, mình cũng suy nghĩ và ủng hộ vì mình hiểu cô ấy hơn ai hết. Lúc đó mình chỉ nói một câu, ở trong đất liền thì lương anh đủ để nuôi em và con, còn ra đó thì em nuôi anh nhé”, anh Chương nửa đùa nửa thật khi nhớ lại ngày xin ra đảo dạy học. Bố mẹ của hai gia đình khi hiểu hết tấm lòng của hai vợ chồng trẻ cũng không ngăn cản nữa, chỉ dặn mỗi câu: “Đã đi thì phải sống hết mình nơi quê hương mới”.



Mỗi ngày 4 “sô”, 5 lớp
Từ ngày ra đảo dạy học, một mình cô Nhung phụ trách 12 cháu nhỏ đủ các lứa tuổi, từ mầm non cho đến lớp 4. Một ngày cô dạy 4 “sô”, cả sáng lẫn chiều. Lúc thì dạy tập đọc, tập viết cho học sinh mẫu giáo, lúc dạy văn, dạy toán cho các em lớp 2, lớp 3, lớp 4. “Mình soạn giáo án đủ 9 môn cho học sinh lớp 2, lớp 3 và 11 môn cho học sinh lớp 4. Ở đây chỉ còn môn thể dục là mình không dạy thôi vì khí hậu khắc nghiệt ở Trường Sa tự thân cũng đã là một môn học quá nặng cho các em rồi”, cô Nhung cho hay.
Dạy học, soạn giáo án cho đến làm đề thi, kiểm tra học kỳ và cho các cháu lên lớp, cô Nhung phụ trách tất. Nhiều đêm cô Nhung phải thức đến tận 2, 3 giờ sáng để soạn giáo án cho các lớp, mà mệt nhất là giáo án về môn văn. Không như trong đất liền, những hình ảnh minh họa luôn phong phú, thậm chí các em có thể đi thực tế để hiểu, nắm bắt vấn đề rõ hơn.
“Học ở đảo nên các cháu không có điều kiện tiếp xúc thực tế nhiều. Các cháu không được đi chơi công viên, sở thú, đi xem phim, tham quan thắng cảnh. Bài tập làm văn các cháu làm luôn phải là một sự tưởng tượng của riêng mình”, cô Nhung kể. Những cánh đồng lúa chín, cây đa, đình làng, con trâu, cái cò… vốn dĩ thân quen, gần gũi với bọn trẻ trong đất liền thì với bọn trẻ ở đảo chúng chỉ biết qua sách vở.
Cũng may gần đây Trường Sa đã có thể xem được tivi, nên bọn trẻ có thể nhận thức được những gì cô giáo Nhung muốn truyền đạt. Nói là vậy, đời sống tâm hồn của bọn trẻ ở đảo theo quan sát của chúng tôi còn rất thiếu thốn. Mùa hè, chúng thường lấy trò chơi lượm ốc, san hô về rải quanh nhà làm trò chơi bán hàng, nhưng mùa đông thì chỉ quanh quẩn trong nhà vì thời tiết ngoài đảo rất khắc nghiệt.



Mỗi "lớp" của cô Nhung chia thành một cụm, quay lưng vào nhau
 

                                       Ghế đu là trò chơi duy nhất của các cháu nhỏ trên đảo

Cô Nhung cho biết, lũ trẻ ở Trường Sa được cái rất ham học. Ở đảo, không có nhiều thứ để chơi nên hầu hết đứa nào cũng thích đi học, vì mỗi giờ học chúng tìm thấy niềm vui. Để chương trình học của các cháu không bị lạc hậu, cô Nhung thường phải liên lạc về đất liền xin đồng nghiệp giáo án, sách vở và cả đồ chơi.
Tất cả 12 học trò của cô giáo Nhung, đứa nào cũng học khá, thậm chí cháu Nguyễn Thanh An, học sinh lớp 4 - cũng là cậu học trò lớn tuổi nhất trong bọn trẻ - thì 4 năm liền đều đạt loại giỏi. “An nó siêng học lắm, nhưng điều kiện học ở đảo không tốt bằng đất liền nên bố mẹ cháu dự định tốt nghiệp lớp 5 sẽ cho cháu vào đất liền. Ở đây cũng có hai, ba cháu học khá bố mẹ đều đã cho vào đất liền học tiếp rồi”, cô Nhung cho biết.
Vất vả, khó khăn nhưng cô Nhung chưa bao giờ thấy lựa chọn của mình là sai lầm, bởi ở đảo cô có một mái ấm yên bình, có người chồng thương yêu vợ hết mực cùng đứa con gái xinh xắn. “Ở đây bọn em cũng rất được các anh chiến sĩ cũng như lãnh đạo ở thị trấn Trường Sa quan tâm. Cả đảo như một mái nhà chung cho mọi người, lại thường xuyên nhận được hỏi han, động viên từ trong đất liền”, cô Nhung nói tiếp.
Mong ước duy nhất của cô Nhung hiện giờ là có một chiếc máy vi tính cùng máy in, để việc soạn giáo án, ra đề thi đỡ mệt hơn, thay vì cứ mỗi lần kiểm tra học kỳ cô lại ra ủy ban thị trấn đánh nhờ đề thi. Thế nhưng, mong ước vậy nhưng cô vẫn bảo với chúng tôi đừng xem đó là yêu sách, đòi hỏi, vì cô vẫn luôn khẳng định mình chưa đóng góp được gì nhiều cho vùng biển đảo thiêng liêng của tổ quốc.




                                                                       TRẦN KHÁNH VINH (GV Văn THCS Tân Thới Hoà)


Tài sản của một người thầy


Ai đó đã nói: “Chỗ đứng của người thầy là trong lòng học sinh”. Và với niềm yêu họ dành cho ông bằng cả ngàn lá thư ông cất giữ cẩn thận trong ngôi nhà yên tĩnh với vài đóa phù dung, đôi chút quỳnh hương, dạ lan, ông thật sự giàu có. Ông, thầy Trương Tham. Có thể nói vậy về nhà giáo ưu tú Trương Tham (nguyên giáo viên dạy văn Trường THPT Trưng Vương, TP Quy Nhơn, Bình Định). Với hơn 40 năm đứng lớp, nhiều học trò của ông giờ là giáo sư, tiến sĩ, cán bộ đầu ngành, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà giáo… Nhưng ngay cả những học trò thành danh, những học trò là công nhân, cày ruộng hoặc cầm súng đánh giặc rồi mãi mãi không về…, ít ai biết thầy đến với nghề dạy học không hề là tự nguyện lựa chọn nghề “trồng người” cao quý.
Nghề chọn người: Mơ mái trường tổng hợp lại phải đi sư phạm, học giỏi toán lại phải học văn, tất cả đều từ quyết định của người cha, một tú tài Pháp tham gia cách mạng, tập kết rồi trở về Nam chiến đấu, hi sinh. Trước ngày về Nam, hai cha con đi dạo trên đường Hà Nội, ông nghe cha đọc những bài thơ tiếng Pháp rồi dịch cho nghe. Người cha bảo rằng mai này đất nước thống nhất, các môn xã hội, nhất là môn văn, cần những người như con đứng lớp! Vậy nên cha ông đã chọn cho ông học Sư phạm Vinh, ngành văn. Chọn Vinh vì lúc này tập trung nhiều thầy giỏi, còn văn là môn học cần cho tương lai: người cha chu đáo của ông đã gửi lại con kỳ vọng và cũng là số phận. Và ông đã đi trọn con đường…
Chuyện nghề: Cha như đã kể, mẹ cũng con nhà đỗ đạt, cậu học sinh của tổng Kim Sơn, Hoài Ân, Bình Định tập kết ra học Trường học sinh miền Nam ở Hải Phòng rồi Hà Đông không mấy hứng thú học hành. Điểm học cứ làng nhàng 3, khá lắm cũng chỉ được 4 (thời này theo thang điểm 5). Cho tới khi lớp được học thầy Tô Thế Huyên, người Nghệ An, dạy toán. Buổi đầu thầy không dạy mà dành trọn cho việc thầy trò hiểu nhau. Thầy, sau khi tự giới thiệu mình, đã gọi tên từng học sinh đứng lên để làm quen. Thật lạ lùng, mấy chục học sinh, người tỉnh thành nào ở miền Nam, khi xưng danh và địa chỉ, thầy cũng nói vanh vách vùng miền ấy những đặc điểm riêng về địa danh, sản vật hay văn hóa lịch sử. Nỗi nhớ quê và niềm kính phục thầy Huyên đã làm cả lớp lập tức có một không khí học hành khác hẳn trước đó. Ông, từ một cậu học trò làng nhàng lơ đễnh chuyện học đã thật sự chuyên tâm và vượt lên thành giỏi nhất môn toán. Cách dạy của thầy Huyên ngoài cung cấp kiến thức căn bản còn gợi những suy tư, những kỹ năng tổng hợp. Tất nhiên sau này ở Đại học Sư phạm Vinh ông còn được học những thầy giỏi như Phùng Văn Tửu, Nguyễn Đăng Mạnh… Nhưng có lẽ người thầy để lại dấu ấn sâu đậm nhất vẫn là thầy Huyên của ngôi trường lợp lá gồi ở Hà Đông, bên ngoài là những hàng bông giấy rực lên trong nắng mơ màng.Năm 1975, ông về lại quê hương Bình Định, hành lý mang theo là cả chục cuốn sổ ghi chép cẩn thận những kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp giỏi sau mười năm dạy các trường ở Nam Định, “đất học” của miền Bắc bấy giờ.
Thầy giáo và nghệ sĩ: Với học trò, ngoài việc truyền đạt những kiến thức và kỹ năng tốt nhất, ông còn rất quan tâm kích thích niềm đam mê, sự hưng phấn học văn. Với học sinh đến với giờ văn thầy Tham luôn tìm thấy những hứng thú. Nhiều học trò nhận xét ông là thầy giáo - nghệ sĩ. Không hẳn vì ngoài việc dạy học ông còn làm thơ, viết báo, viết sách về cảm luận văn chương mà bởi chính cách dạy, cách truyền cảm hứng cho học trò rất riêng của ông. Ông bắt đầu bài giảng có khi bằng cách nêu một công thức hóa học và khẳng định: “Các em học thuộc thì chỉ nhớ đây là một công thức, nhưng có những vần thơ sẽ làm các em xúc động, chẳng hạn như…”. Những vần thơ này không phải là bài học hôm đó, ông chỉ gợi sự chú ý. Có lúc ông bắt đầu bằng việc kể lại ấn tượng lần đầu ăn cơm hến rất cay và ngon của Huế rồi bài học đến một cách tự nhiên cuốn hút… Truyền cảm hứng cho học trò là một phần sự thành công của tiết học, có khi mang ý nghĩa quyết định. Bài học từ người thầy dạy toán năm xưa đã được ông vận dụng rất giỏi suốt mấy chục năm đi dạy của mình.“Thầy không chỉ dạy mà còn học từ học trò. Không kể những học sinh giỏi, ngay cả một bài làm của học sinh trung bình, đôi khi các em cũng có những phát hiện bất ngờ” - ông quan niệm. Có thể điều này nhiều thầy giáo cũng nghĩ như ông nhưng nói ra thành lời một cách chân thành như thế hẳn không mấy người. Với ông, học, dù học thầy, đồng nghiệp, sách vở, cuộc sống hay từ học trò, cuối cùng cũng để cho việc làm thầy tốt hơn. Suốt cuộc đời dạy học, ông luôn kiên trì tìm trong những bài kiểm tra chất lượng đầu năm những dấu hiệu năng khiếu để chuyên tâm bồi dưỡng. Đến năm về hưu, 2003, ông còn kịp góp cho tỉnh gần chục danh hiệu học sinh giỏi văn.
Hai lần (năm 1978 và 1983) đoạt giải nhất cuộc thi “Đồ dùng dạy học” quốc gia, cùng thành tích từ giảng dạy, năm 1990 thầy Trương Tham được Nhà nước phong danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Dù đã nghỉ hưu, năm năm qua ngày ngày ông vẫn đạp xe đến các trung tâm dạy luyện thi và tham gia các lớp bồi dưỡng học sinh giỏi của tỉnh. Ông luôn được mời vì năng lực, kinh nghiệm. Và ông cũng cần đi dạy vì nhớ không khí trường lớp, học trò. Hàng ngàn học trò của mình ai ông cũng yêu thương, nhưng ông dành tình cảm đặc biệt cho những học sinh hư hỏng biết nghe lời, học sinh giỏi và những người đi đánh giặc đã ngã xuống. Hằng tuần, thư từ, điện thoại khắp nơi trong nước, ngoài nước của những học trò thành đạt và không thành đạt thường xuyên đến với ông. Ông nói mình chỉ biết dạy học, còn nhiều lĩnh vực không thể tới được: nhà khoa học, nhà quản lý, nhà văn, công nhân các ngành nghề, sĩ quan quân đội… đã có học trò góp sức.

Nhân dân đảo Ngọc với Bác Hồ


I/Đặt vấn đề

          Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh  luôn quan tâm đến giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh. Miền bắc được giải phóng, tỉnh Quảng Ninh là một trong những nơi được Bác về thăm nhiều nhất. Những lời dạy bảo của Bác là ngọn đuốc soi đường, là nguồn cổ vũ động viên Đảng bộ và nhân dân Quảng Ninh giành thắng lợi không chỉ trong những chặng đường đã qua mà cho cả các giai đoạn hiện nay và mai sau. Vào ngày 12 tháng 11 năm 1962 trong một chuyến về thăm Qủang Ninh Bác đã ra thăm và động viên nhân dân đảo Ngọc(xã Ngọc Vừng-huyện Vân Đồn-Quảng Ninh).
         
 II/ Nội dung câu chuyện:
                    Nhân dân đảo ngọc với bác hồ
Sẽ mãi mãi Đảo Ngọc không thể nào quên  một ngày tháng 11 năm 1962,  khi chiếc máy bay lên thẳng lượn trên bầu trời đảo - người dân đảo nghĩ ngay tới việc được đón Bác Hồ về thăm. Từ  của máy bay bước ra, Bác tươi cười giơ tay vẫy chào quân dân trên đảo.Các cụ già, các em thiếu nhi, thanh niên, phụ nữ,  bộ đội vây quanh bác với một niềm sung sướng dạt dào, âm vang tiếng vỗ tay và ngời sáng những cặp môi cười.
          Bác đã hỏi chuyện cụ Biên - người cao tuổi nhất đảo Ngọc:
-         Cụ khoẻ luôn không?
-         Thưa cụ Hồ khoẻ lắm!
-         Cụ thấy bây giờ khác khi giặc tạm chiếm ở chỗ nào?
-         Thưa cụ,khác ở chỗ không còn cảnh người bóc lột người.
Bác cười rất vui, xiết chặt cụ biên: - Cụ nói đúng lắm! rồi quay sang chị phụ trách phụ nữ xã, bác hỏi:
-         Thế phụ nữ  ở đảo có còn cãi nhau không?
-         Thưa Bác còn ít thôi ạ!
-          Thế thì phải dần dần đừng cái nhau nữa, phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau tiến bộ.
Rồi bác hỏi đồng chí bí thư chi bộ xã: Trên đảo này có bao nhiêu đảng viên... Bác bảo như vậy là ít. Cần tuyên truyền, giáo dục và phát triển Đảng nhiều hơn trong thanh niên, phụ nữ. Bác lấy kẹo chia cho các cháu thiếu nhi. Âu yếm ôm hôn từng cháu và hỏi han ân cần. Bác hỏi thăm nam nữ thanh niên và bộ đội.... Bác căn dặn về sự cần thiết phải làm giàu kinh tế trên đảo như cấy lúa, trồng khoai, trồng cây, đánh cá...;chăm sóc sức khoẻ, chữa bệnh cho nhân dân, dạy học cho các cháu nâng cao đời sống người dân trên đảo.
Bác đặc biệt căn dặn: Bộ đội và nhân dân phải đoàn kết, bộ đội phải giúp dân xây dựng hợp tác xã. Nhân dân phải giúp bộ đội chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Bác đã về thủ đô, nhưng tình bác còn đượm trong lòng, lời bác còn âm vang mãi. Nơi Bác đứng có một cây đa xum xuê cành lá như chiếc lọng lớn, toả bóng xuống bãi cát trắng mịn màng. Người dân Đảo xây một tấm bia to bằng xi măng vững chãi, vẽ hoa văn xung quang và khắc hình cánh chim ở giữa lời bác dặn.
Đúng ngày sinh nhật 44 năm của Đảng năm 1974- Đảo Ngọc vinh dự đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân do nhà nước phong tặng.
Đảo Ngọc, cửa ngõ đất liền, gai găm  mắt giặc, mặc dầu đã một năm hoà bình mà cây trên đảo vẫn chưa nhuộm xanh lại hết những mảnh đất bị cháy xém bởi đạn bom của giặc Mỹ. Gần 200 trận, hơn nghìn rưỡi bom, cùng với non vạn bom bi, rốc- két quân giặc dội xuống một hòn đảo vỏn vẹn 600 dân - những mong giết chết mọi sự sống trên đảo. Nhưng bọn trùm sỏ đế quốc Mỹ làm sao hiểu nổi người dân đảo Ngọc nói riêng và người dân Việt Nam nói chung-thật lạ kỳ thay những con người kiên cường bất khuất. Mỗi lần máy bay giặc bay qua đảo Ngọc-đều bị lưới lửa phòng không ngang trời vây ráp.
Cách ngày này hơn 30 năm về trước, những phát đạn căng vút lên từ khẩu súng đặt trên đất đảo anh hùng, đã bắn tan xác chiếc may bay giặc Mỹ thứ 200 ở tỉnh ta và là chiếc máy bay thứ  23 của đảo Ngọc, đã gắn thêm vào lá cờ truyền thống của Đảo Ngọc anh hùng.
Hà Nội 12 ngày đêm cuôí tháng chạp năm 1972 đã đi vào lịch sử  cả nước như một cái mốc, một “Điện Biên Phủ trên không”, quyết định vận mệnh, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, quyết định vận mệnh của đế quốc Mỹ tại cuộc chiến tranh ở Việt nam. Thì ở Quảng Ninh-chiếc máy bay giặc Mỹ thứ 200 tròn mà quân và dân đảo Ngọc đã bắn tan xác trên bầu trời tỉnh Quảng Ninh cũng trở thành con số lịch sử.
Lễ đài mang hình Bác Hồ rất lớn ở chính giữa. Từ đó, Bác tươi cười nhìn mãi ra bãi cát mà năm 1962 chính Người đã đứng. Quân và dân Đảo Ngọc quần tụ dưới trời mưa xuân, nghe đọc lệnh của Chủ tịch nước và quyết định của Quốc hội phong tặng danh hiệu Anh hùng cho đảo Ngọc. Bí thư xã Đảo tay nâng tấm bằng khen lồng trong khung kính, cùng với chính trị viên tiểu đoàn bộ đội đóng trên đảo dâng cao lá cờ thưởng danh hiệu anh hùng, là một hình ảnh minh hoạ tuyệt vời cho tình quân dân ở đảo Ngọc như lời Bác dặn năm nào: ở trên đảo này, bộ đội và nhân dân phải đoàn kết.
Thật vậy, lời dạy của bác Hồ thấm nhuần trong việc làm hôm nay của quân và dân trên đảo Ngọc anh hùng. Bác đã đi xa gần 40 năm , song những lời dặn dò, chỉ bảo ân cần của bác đối với nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh vẫn còn in đậm mãi.
   III/ Ý nghĩa, bài học.
 “ ôi lòng bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa.
Chỉ biết quên  mình cho hết thảy
Như dòng sông đỏ nặng phù sa.”

          Lời thơ ấy cứ ngân vang trong tôi khi đọc xong câu chuyện về Bác. Một vị chủ tịch nước bận trăm công nghìn việc mà vẫn luôn dành thời gian quan tâm đến nhân dân vùng biển đảo xa xôi. Bác đã dành sự quan tâm, thăm hỏi ân cần tới tất cả các tầng lớp, các lứa tuổi từ già đến trẻ, từ phụ  nữ tới bộ đội, cán bộ trên đảo Ngọc. Bác thương lám những người dân lam lũ nơi đây trở thành mục tiêu trọng điểm trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của giặc Mỹ. Một lời hỏi thăm, một lời động viên ân cần cũng chính là những suy tư, trăn trở của bác dành cho những người dân nơi đây. Lời căn dặn về tình đoàn kết quân dân trên đảo Ngọc của Bác đã trở thành sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn, một động lực mạnh mẽ thôi thúc toàn quân và dân trên đảo Ngọc chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

   IV/ Liên hệ bản thân, đơn vị

          Từ con người vốn rất đẹp trong đời thường, Bác đã đi vào thơ, ca, nhạc hoạ, đi vào lòng người dân Việt Nam bởi chính tấm lòng nhân ái bao la ấy!
          Nhìn vào tấm gương  sáng chói của Bác tôi ý thức hơn hết vai trò và trách nhiệm của mình. Một  người giáo viên nội trú-cần lắm những tấm lòng yêu thương học sinh. Khi giảng dạy  tôi luôn chú ý làm sao giảng dễ hiểu, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất và luôn rèn tác phong gương mẫu của một người giáo viên. Khi các em học sinh ốm, đau thì chúng tôi là những người cha, người mẹ thứ 2 có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc các em khi bố mẹ các em ở xa, chưa kịp xuống. Khi các em học sinh có những tâm sự, những vấn đề khúc mắc thì  chúng tôi lại như một người bạn, người chị cùng chia sẻ, động viên, góp ý cho các em những hướng giải quyết tích cực nhất. Tôi luôn chú trọng việc rèn luyện đạo đức, tác phong cho chính mình và cho các em học sinh, giáo dục các em tinh thần đoàn kết các dân tộc, tương thân tương ái trong học tập và sinh hoạt nội trú. Học tấm gương của Bác trước hết tôi học ở Bác một tấm lòng-những lời dạy của Bác sẽ là hành trang cho tôi và cho mỗi chúng ta phải học tập, rèn luyện và hoàn thiện mình trong suốt cuộc đời.
 
V/ Kết luận
         
          Qua đợt Trung ương Đảng phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” thì một lần nữa hình ảnh của Bác được gợi  nhớ, in sâu vào mỗi cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trên cả nước.
                                                            
                                                                      TRẦN KHÁNH VINH

                        

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh


Trong xã hội ngày hôm nay, cùng nền kinh tế thị trường, nhiều người có lối sống không lành mạnh. Không ít người chỉ biết chăm lo cho lợi ích cá nhân của mình… Đó chính là biểu hiện của lối sống vô trách nhiệm, ích kỉ… Vậy làm cách nào để khắc phục tình trạng đó? Đó có thể là một vấn đề nan giải. Chính vì vậy, việc hưởng và làm theo cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh” là rất quan trọng. Nó giúp mọi  người có những “bước đi” đúng đắn, và giúp cho chúng ta có thể tự trau dồi, tự rèn luyên bản thân mình ngày càng tốt hơn.
Trong đó việc “nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng phục sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân" là rất quan trọng. Đây là cuộc vận động có ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn, sâu sắc và thiết thực đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong hai năm qua, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã được triển khai sâu rộng, đặc biệt trong các trường học, việc học tập và làn theo tấm gương đạo đức là một trong những việc rất quan trong để người giáo viên tự hoàn thiện bản thân mình. Nó đã trở thành thước đo để đánh giá quá trình trưởng thành và phát triển của một giáo viên.
Để tiếp tục đưa cuộc vận động đi vào chiều sâu cần phát huy vai trò và nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong học tập và làm theo tấm gương của Bác.Trong năm 2009 này với chủ đề “Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân” gắn với kỷ niệm 40 năm thực hiện di chúc của Bác,đòi hỏi mỗi tổ chức, cá nhân… xây dựng kế hoạch học tập làm theo tấm gương đạo đức của Bác với nội dung cụ thể và thiết thực.
Theo tôi, đây là cuộc vận động có ý nghĩa rất thiết thực đối với Đảng và nhân dân nói chung và đối với cán bộ viên chức của trường THCS Lê Lai nói riêng. Cuộc vận động không chỉ mục đích nhằm ca ngợi, làm nổi bật tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ chí Minh; mà còn làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thấm nhuần nội dung và nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, giá trị to lớn của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần trong xã hội. Qua đó phát hiện, nêu gương những nhân tố mới, những điển hình tiên tiến trong quá trình thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Đồng thời là dịp để toàn thể giáo viên trường THCS Lê Lai nêu cao vai trò, trách nhiệm của mình với xã hội, thể hiện tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc với Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta , người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người là tấm gường sáng ngời về đạo đức và lối sống. Đó là tấm gương về sự hy sinh cao cả, cả cuộc đời vì nước vì dân; là tấm gương về lối sống thanh tao, giản dị, trong sáng, gần gủi, gắn bó với nhân dân, tấm gương về tinh thần quốc tế cao cả. Đó là tinh thần làm việc tận tuỵ, hết lòng vì sự nghiệp cách mạng, vì nhân dân, là sự mẫu mực về đức tính “cần , kiểm, liêm, chính, chí công, vô tư”.
Vì vậy cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là dịp để cho người giáo viên như tôi thấm nhuần hơn nữa những giá trị đạo đức trong sáng của Người, phấn đấu học tập và làm theo tấm gương đạo đức sáng ngời của Người. Để thực hiện có hiệu quả cuộc vận động trên, là một cán bộ viện chức cần phải thực hiện một số nội dung sau:
+ Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền , giáo dục về mục đích, ý nghĩa của cuộc vận động, để cuộc vận động có sức lan toả cả bề rộng lẫn bề sâu trong toàn Đảng, toàn dân, trong đội ngũ cán bộ viên chức và trong toàn xã hội… Để là được điều này, người giáo viên cần phải tự rèn luyện bản thân mình và giúp học sinh cùng học tập đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh một cách thiết thực. Trong quá trình thực hiện, người giáo viên cần phải thường xuyên nhìn lại bản thân mình, phải biết tự đánh giá và sửa chửa kịp thời những  sai sót của bản thân mình… Đó cũng là con đường ngắn nhất để giáo viên tự hoàn thiện mình và trở thành tấm gương sáng cho học sinh.
+ Cần phải có những việc làm thiết thực hơn trong việc hưởng ứng cuộc vận động này:
Về việc nâng cao ý thức trách nhiệm. Người giáo viên cần phải có trách nhiệm với công việc. Chúng ta cần tìm nhiều biện pháp để giảm tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học. Để nâng cao thành tích của nhà trường.
Về việc phụng sự tổ, phục vụ nhân dân, người giáo viên cần có thái độ đúng mực khi giao tiếp với phụ huynh. Riêng với học sinh, chúng ta cần phải lấy sự công tâm để dạy dỗ học sinh… Từ đó hướng các em vào tình yêu quê hương, tình yêu tổ quốc.
+ Cần phải có những kế hoạch cụ thể để tự rèn luyện mình: rèn luyện về tính giản dị, tiết kiệm, trung thực…
Với nội dung của cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là “ Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng phục sự Tổ Quốc, phục vụ nhân dân” hết sức rộng lớn và sâu sắc. Bản thân cần phải gương mẫu thực hiện, nêu gương tốt về phẩm chất, đạo đức lối sống, “nói đi đôi với việc làm” theo phương châm “trên trước, dưới sau, trong trước ngoài sao”, học và học mãi nhận thức được về vị trí, vai trò của cán bộ, viên chức. Đó cũng là những vấn đề cốt lõi của việc nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân theo tấm gương đạo đức Bác Hồ.
                                                                                                                                                     TRẦN KHÁNH VINH
                           (Giáo viên Văn Trường THCS Tân Thới Hòa)

VÒNG TAY ẤM ÁP ĐÓN NGƯỜI QUAY LẠI


Thấy những người 1 thời lầm lỗi sau thời gian hồi gia vẫn tỏ ra rụt rè, không dám tiếp xúc với láng giềng xung quanh, Chung chợt nghĩ :”Trên địa bàn có tới 16 người tái hòa nhập cộng đồng, nếu cứ đế các anh chị ấy sống tách biệt, tự cô lập như thế, e có lúc họ sẽ quay về đường cũ”. Mang nỗi lo của mình trình bày với các cô chú cán bộ phường, đồng thời đề xuất ý tưởng thành lập CLB Những người bạn, Chung mừng hết lớn khi được mọi người ủng hộ nhiệt tình. Ngày ra mắt CLB cũng là lúc chủ nhiệm Chung toát mồ hôi với công việc “khó nuốt” : vận động người hồi gia đến với CLB.
Cứ đều đặn mỗi ngày, Chung tranh thủ thời gian “tấp” vào từng nhà, trước hết là tiếp xúc với gia đình để nắm được tình hình và gây cảm tình, sau mới lân la làm quen với đối tượng. Thấy “cậu này lễ phép và dễ mến quá!”, những “người lạ” không còn cảm giác bị cộng đồng xa lánh nữa, sẵn sàng trải lòng tâm sự thật tình. Gặp anh T rỗi rảnh hay đi loanh quanh trong xóm, Chung chủ động “tấn công” liền :”Tiệm báo ở đầu ngõ đang cần người giao báo. Em đã chỗ cho anh rồi. Sáng mai, em giới thiệu anh với chủ tiệm bắt đầu làm luôn nha!”. Đang thất nghiệp bỗng có việc làm đàng hoàng để kiếm thu nhập phụ giúp gia đình, anh T xúc động đến nghẹn lời.
Ngoài liên hệ với các cơ sở sản xuất kinh doanh ở đại bàn. Chung còn chịu khó lên mạng tìm kiếm thông tin tuyển dụng để “săn” các công việc như : giao hàng, sửa xe, chăm lo hàng quán… nhằm giới thiệu cho những người đang mong làm lại cuộc đời. Chung tâm sự :”Mình tin nếu có nghề nghiệp ổn định, các anh chị ấy sẽ tự tin hơn khi hòa nhập cộng đồng, không còn thời gian nghĩ ngợi lung tung nữa”. Sau bao ngày lăng xăng, cuối cùng nỗ lực vì mọi người của Chung đã được đền đáp khi từng thành viên của  CLB Những người bạn đã tìm được công việc thích hợp. Còn nhớ, ngày anh D được nhận vào làm ở 1 công ty nước ngoài, không chỉ Chung mà cả CLB Những người bạn đều “hết hồn”, không giấu được niềm vui sướng. Lời chúc mừng khắp nơi bay về, nhưng Chung lại “bào chữa” :”Mình chỉ là người giới thiệu, còn được tuyển vào làm là do nỗ lực của anh D đó chứ?”. Chung là thế đó, lúc nào cũng tìm cách “né” những lời khen tặng, dù bạn xứng đáng được như thế!


                                                                  Nguyễn Thị Thư  ST
                                                                     (Nguồn Mực tím)


BÀI HỌC TỪ NHÀ SÀN


Sinh ra và lớn lên ở miền Bắc nên Đào Minh Hải (sinh viên ĐHSG) có nhiều dịp viếng thăm các khu tích về Bác. Qua  những chuyến tham quan ấy, “Nhà sàn Bác Hồ” là nơi đọng lại trong Hải nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Bạn kể, ngôi nhà của Bác chủ yếu làm từ tre với vài căn phòng nhỏ đơn sơ. Để tiết kiệm diện tích, Bác tận dụng vách ngăn giữa hai phòng thiết kế giá sách, lót ván lên các bậc thang để làm băng ghế ngồi… Tất cả những hình ảnh ấy gợi cho Hải suy nghĩ về lối sống bình dị, tinh thần tiết kiệm mà trước đây bạn  ít khi nghĩ đến.
Nếp sinh hoạt của Hải dần thay đổi, bắt đầu từ những việc làm thường ngày. Bộ quần áo đi học thay vì sử dụng 1 lần thì nay bạn cố giữ sạch để có thể mặc 2 lần nhằm tiết kiệm thời gian giặt giũ. Trong học tập, Hải chỉ mua những quyển sách hay tài liệu thật sự cần thiết, còn lại thì mượn thư viện, bạn bè để photo hoặc chịu khó ghi chép lại…. Nhiều người thắc mắc gia đình Hải đâu có khó khăn, sao phải cân nhắc kĩ lưỡng khi chi tiêu cho khổ thân. Hải cười hiền bảo : “Sống giản dị để có thể chia sẻ với nhiều người khác”.
Không chỉ thay đổi bản thân, Hải còn kêu gọi bạn bè cùng tiết kiệm. Chẳng hạn, trước kia nhóm của Hải thường có thói quen đi du lịch, cắm trại vào dịp lễ nên mọi chi phí đều cao, lại mất thời gian di chuyển do kẹt xe. Gần đây, Hải cùng mọi người nhất trí sắp xếp thời gian đi khám phá, thư giãn vào ngày thường sao cho không ảnh hưởng đến lịch học; điểm đến tuy gần hơn nhưng không ảnh hưởng đến chất lượng cuộc chơi. Đặc biệt, để kết hợp giữa chơi và học, Hải tìm cách lồng vào chương trình những tiết mục thi thố hay đố vui có thưởng. Ngoài ra, những lần đi xem văn nghệ ở trường, thấy trong cánh gà thường có nhiều bó hoa bị vứt khắp nơi thật lãng phí, Hải quyết định viết thư ngỏ gửi tới từng lớp để nhắn nhủ :”Hoa đẹp nhưng rồi sẽ tàn và cũng phải bỏ đi. Thay vì mua hoa, các bạn nên dùng số tiền ấy hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn”. Và thế là phong trào “biến hoa thành quỹ” nhanh chóng lan rộng, tạo điều kiện cho Hải cùng nhóm bạn có cùng tâm huyết thực hiện những chuyến viếng thăm, tặng quà cho trẻ em nghèo ở mái ấm Q.8, Trung tâm Bảo trợ Nuôi dưỡng Trẻ em Q.Gò Vấp…
Để thể hiện lòng tôn kính với Bác Hồ, suôt thời gian dài, Hải đã cất công sưu tầm về Bác hệ thống “tài sản” của mình thành chuỗi sự kiện gắn với cuộc đời – sự nghiệp của Bác. Cách sưu tầm của hải là góp nhặt những con tem có hình Bác từ các bức thư mà gia đình, người thân gửi từ Bắc vào, đến tiệm sách cũ tìm mua các quyển tạp chí chuyên về tem rồi cắt tem có hình Bác,… Sau đó, Hải thực hiện việc cắt dán, trang trí để cho ra đời album tem đặc biệt.
Chưa dừng lại ở đó, Hải còn cất công đi đến các tiệm mộc gỗ xin gỗ vụn về đục đẽo làm mô hình “Nhà sàn Bác Hồ” với thông điệp gửi đến mọi người :”Tiết kiệm không phải là biểu hiện của lối sống khắc khổ mà để hoàn thiện nhân cách, là tiêu chí đánh giá 1 dân tộc văn minh, cao thượng”…

                                                                          Thúy Loan ST
                                                                          (Nguồn Mực tím)



Giới thiệu về tôi

Ảnh của tôi
Chi Đoàn Trường THCS Tân Thới Hòa quyết tâm học tập và làm việc theo gương Bác Hồ vĩ đại